|
|
Tranh bìa cuốn sách: "Trương Hán Siêu - Danh sĩ thời Trần"
Tác giả Phạm Công Nga. Nhà Xuất Bản Khoa học xã hội |
Cho đến nay còn chưa rõ ông sinh năm nào. Chỉ biết Trương Hán Siêu khi còn trẻ làm môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, từng tham gia cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và lần thứ ba.
Ông là một người có học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc cả đạo Phật và đạo Nho nổi tiếng đương thời, nên được các vua Trần trân trọng như bậc thầy. Trương Hán Siêu làm quan trải bốn triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông), từng giữ các chức Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Tả gián nghị đại phu, Tham tri chính sự.
Dưới triều Trần Dụ Tông, vào năm 1341, ông cùng Nguyễn Trung Ngạn soạn hai bộ sách lớn là Hình luật thư (pháp luật) và Hoàng triều đại điển (điển lễ). Hai bộ sách này là cơ sở pháp chế và lý luận cho công việc trị nước thời bấy giờ. Năm 1353, Trương Hán Siêu được cử đi đánh giặc ở phương nam và trấn thủ châu Hóa, tức vùng Huế ngày nay. Năm 1354, ông qua đời tại châu Hóa. Sau khi mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu quốc gia, ngang với các bậc hiền triết xưa.
Nhiều thế hệ nho sĩ đời sau đều coi Trương Hán Siêu là một trí thức nho sĩ chân chính, tiêu biểu của giai đoạn thịnh Trần. Phật giáo ở Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV phát triển thịnh vượng và có tác dụng tích cực đối với đời sống văn hóa, tư tưởng dân tộc. Từ nửa sau thế kỷ XIV trở đi, Phật giáo dần đi vào sa sút thoái hóa cùng với sự khủng hoảng, suy yếu của chế độ nhà Trần. Và tất yếu dẫn đến cuộc tranh giành vị trí, ảnh hưởng giữa Nho giáo và Phật giáo. Trương Hán Siêu được coi là người đầu tiên lên tiếng phê phán những “sư không ra sư” lợi dụng thanh thế đạo Phật chiếm dụng đất đai, ruộng vườn, xây nhiều chùa, tháp, tốn kém tiền của vô cùng. Có thể nói, con đường dẫn đến địa vị độc tôn của Nho học vào thế kỷ XV đã được khởi đầu bởi những trí giả lớn như Trương Hán Siêu, Lê Quát...
Phú là một thể tài văn học ra đời rất sớm ở Trung Quốc, xuất hiện từ thời Chiến Quốc (năm 403 đến 221 trước Công nguyên), phát triển rất nhanh, các văn nhân đều thích sáng tác phú; và trở thành loại hình văn học tiêu biểu bậc nhất ở thời Hán, nên người đời sau thường nói “Hán phú”, “Đường thi”. Trong phú kết hợp tính chất thơ ca với tản văn.
Có loại tiểu phú (những bài phú ngắn), nặng về trữ tình, phát triển mạnh thời Đông Hán, thí dụ bài “Tư huyền phú” của Trương Hoành.
Còn loại đại phú (những bài phú dài), nghiêng về phô trương, thường miêu tả cảnh mỹ lệ, tiêu biểu là “Thượng lâm phú”, “Tử hư phú” của Tư Mã Tương Như...
Ở Việt Nam, thời xưa, phú phát triển khá mạnh, tuy có muộn, nhưng thành tựu cũng lớn. Nhiều tác phẩm phú xuất sắc được truyền tụng sâu rộng trong đời sống văn hóa dân tộc, như “Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông, “Ngọc tỉnh liên phú” của Mạc Đĩnh Chi, “Chí Linh sơn phú” của Nguyễn Mộng Tuân, “Xương Giang phú” của Lý Tử Tấn, “Lam Sơn Lương thủy phú” của Lê Thánh Tông, “Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng, v.v...
|
Một đóng góp lớn của Trương Hán Siêu cho văn hóa dân tộc là, ông đã sáng tác nên những tác phẩm văn học có giá trị lớn: Bài ký ở Tháp Linh tế trên núi Dục Thúy, Bài ký khắc trên bia chùa Khai Nghiêm cùng một số bài thơ, đặc biệt nhất, là “Bạch Đằng giang phú” (Bài phú Bạch Đằng giang).
“Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Đây là áng văn chương tràn đầy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa những triết lý lịch sử sâu sắc. Bạch Đằng giang phú là tác phẩm đỉnh cao của tài hoa viết phú.
Sông Bạch Đằng do sông Đá Bạc, sông Giá và nhiều nhánh sông khác đổ vào, bờ bên phải áp núi Tràng Kênh, bên trái có rừng bao bọc, tạo nên thế rất hiểm yếu. Bạch Đằng là một địa danh lịch sử rất nổi tiếng ở huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn xưa.
Phạm Sư Mạnh đã viết:
“Mặt trời chiếu vào hang Dương Cốc là kỳ quan của vũ trụ
Vượng khí núi sông thu tụ ở sông Bạch Đằng”.
Còn Nguyễn Trãi có câu:
“Cửa sông xung yếu do trời đặt ra
Hai người chống được trăm người
Những bậc anh hùng từng lập công ở đất này...”
Trương Hán Siêu đã mô tả đầy đủ vẻ tráng lệ của sông Bạch Đằng với một xúc cảm thẩm mỹ lớn:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một mầu
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”
|
|
Đền thờ Trương Hán Siêu nằm ở phía Tây Nam của núi Dục Thúy, cầu Non Nước, đường Vân Gia, phường Vân Giang, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình |
Với “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu như đã làm sống mãi những trận đánh oai hùng trong lịch sử dân tộc:
“Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kỳ phấp phới
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói
…
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi...”
Và, sau những mô tả chiến trận dữ dội, hào hùng, xúc cảm của Trương Hán Siêu trầm sâu, thấm thía:
“Đến nay nước sông tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”.
Trong kho tàng văn chương dân tộc Việt, một số tác giả khi viết về sông Bạch Đằng thường chỉ nhấn mạnh tới thế hiểm yếu của vùng sông núi này, chỉ Trương Hán Siêu mới chú ý tới yếu tố con người:
“Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an!”
Bài phú được khép lại bằng hai câu thật thanh thản mà chứa đựng một triết lý lịch sử sâu xa:
“Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.